Trẻ em béo phì - nguyên nhân, cách phòng ngừa và trị liệu

Thứ Năm, 24.04.2025 | 20:38 (GMT+0700)


Thói quen và Bệnh

Trẻ em béo phì - nguyên nhân, cách phòng ngừa và trị liệu

Trẻ em béo phì - nguyên nhân, cách phòng ngừa và trị liệu

2021-06-01 14:16:39

Đứa bé nếu bạ gì cũng ăn và ngốn thức ăn suốt ngày thì rồi đây nó sẽ mập tròn như củ khoai, suốt ngày nằm dài trên tràng kỷ, hết nhá món khoai rán lại đến món kem…

Đứa trẻ có sự chuyển hóa cơ bản gia tăng

Nói tóm tắt, cháu bé béo phì là một đứa trẻ mà sự chuyển hoá cơ bản đã gia tăng vì cháu đã “xây dựng” cho mình khối lượng mỡ và nạc nhiều hơn các cháu khác: mỗi kilô thể trọng của cháu được tạo nên bởi 75% mỡ, còn 25% là cơ bắp. Do cháu phải cử động với khối lượng cơ thể lớn hơn các bạn nên cháu cũng tiêu hao nhiều năng lượng hơn. Kết quả là trong thời gian đầu, cháu bé ăn nhiều hơn so với mức năng lượng chi dùng và đã tạo thành mô mỡ trong cơ thể. Cháu đã “béo ra” (đó là giai đoạn động của sự béo phì). Trong thời gian sau (là giai đoạn tĩnh) bảng cân đối trở nên cân bằng nhưng cháu vẫn bắt buộc phải ăn nhiều hơn các bạn, vì với số cân dư thừa, cháu phải thích ứng với sự cung cấp năng lượng nhiều hơn.

Xin bạn nhớ rằng, điều này cho thấy bạn không thẻ kìm hãm đứa con bạn một cách độc đoán, dù cháu quá mập hay béo phì nữa, bằng cách chỉ cho cháu lượng đồ ăn ngang mức với một cô bé “bình thường” vì cháu phải tự điều chỉnh nhu cầu về lượng ở mức cao hơn nhiều. Cháu phải được ăn nhiều hơn so với cô bạn… mà phải được ăn tốt hơn trước (xem phần III).

Sự thật là, chính trong giai đoạn đầu (giai đoạn động), khi hình thành số cân dư thừa và sự béo phì, phải quan tâm đến cháu nhiều hơn (xem phần II, sự dự phòng).

Trong khung cảnh của sự cân bằng mong manh về sinh lý giữa cung ứng và tiêu dùng năng lượng, chắc chắn có sự tham gia của tính di truyền, nhưng cũng có sự tham gia của cơ chế điều chỉnh hormon, đặc biệt là những hormon chi phối việc sản sinh ra insulin.

Một công trình nghiên cứu nhi khoa do Viện Inserm (Viện Y tế và nghiên cứu y học) chủ trì, từ năm 1992 đã đưa ra những thông tin về giai đoạn đầu của chứng béo phì, thời kỳ mà lạ thay còn ít được hiểu rõ: trái với người lớn thường có sức đề kháng tốt hơn đối với hormon của tuyến tuỵ, trẻ con béo phì quả là rất nhạy cảm với insulin, chất đóng vai trò then chốt trong việc điều chỉnh không những đường và prôtêin, mà còn cả chất béo nữa. Nó kìm hãm sự tiêu các mô mỡ. Người ta nhận thấy ở những đứa trẻ, ngay trong giai đoạn động đang tăng cân, vẫn khác với người lớn là có sự nhạy cảm đặc biệt với insulin. Chất đó dù với lượng rất nhỏ cũng đủ gây nên sự phong tỏa bất bình thường chất béo (50%) trong các mô mỡ và do đó tạo thuận lợi trực tiếp cho việc tích mỡ các đứa trẻ béo phì.

Điều cần xem xét tiếp là sự nhạy cảm đặc biệt đó là nguyên nhân hay là hậu quả của trạng thái dư thể trọng. Những quan sát thực hiện trên một con chuột béo phì cho thấy khi tiết dịch insulin tăng cao sẽ kích thích sự nhạy cảm đặc biệt của các mô mỡ, đó là một hiện tượng phụ nhưng là hiện tượng chuyển tiếp, trở thành bền vững khi đã hình thành chứng béo phì. Công việc nghiên cứu đã mở đường cho việc lựa chọn phương pháp chữa trị và phòng ngừa mới dựa trên sự mẫn cảm đối với insulin ở giai đoạn đầu, giai đoạn động của chứng béo phì.

Ảnh hưởng của việc nuôi dưỡng thai nhi kém

Việc nghiên cứu con cái của những bà mẹ đã chịu cảnh thiếu đói hồi cuối thế chiến thứ hai tại Amsterdam (do người Đức thực hiện vịêc phong toả thực phẩm) là một thí dụ khá rõ về những ảnh hưởng này. Trải qua nhiều thế hệ, những biến đổi rất nhanh gần đây về mức độ và bản chất của môi trường thực phẩm đã tác động lên tình trạng dư thể trọng.

Quả vậy, những đứa bé đã phải chịu đựng sự hạn chế dinh dưỡng trong dạ con của mẹ suốt ba tháng cùng của thời kỳ bào thai, khi sinh ra thường nhẹ cân hơn các bé khác. Đó là do chế độ ăn uống của mẹ đã tác động trực tiếp lên bào thai.

Những đứa bé chịu đựng sự hạn chế nói trên trong 6 tháng đầu của thời kỳ bào thai, khi sinh ra vẫn cân nặng giống như bé khác, nhưng đến thế hệ con cái chúng, sự không dung nạp đường glucoza và tính kháng insulin phát triển thường xuyên hơn các bé khác, từ đó có nguy cơ cao về chứng béo phì và bệnh tiểu đường.

Nhưng điều kỳ lạ nhất là việc thiếu dinh dưỡng đã tác động lên sự không dung nạp glucoza còn kéo dài đến tận thế hệ thứ hai, mà không có tác nhân kích thích nào. Những biến đổi đó thể hiện ở thế hệ thứ hai có thể là do những biến đổi xuất hiện ở bào thai, trong các thể bào sinh dục và truyền lại.

Điều đó chứng tỏ sự thích nghi mau chóng của con người đối với môi trường thông qua biến đổi gen.

Loại thích nghi nhanh chóng đó cho phép tăng tuổi thọ của các cá nhân và của cả đàn con cháu nữa. Điều xảy ra chứng tỏ nếu bào thai bị thiếu dinh dưỡng trong những thời kỳ nhất định của quá trình phát triển, sẽ để lại dấu ấn chuyển hóa, một sự “chương trình hóa” ngắn hạn những tác động thuận lợi cho sự tồn tại, nhưng đặc tính quyết định của nó, xét về lâu dài trong suốt cuộc đời, khi đứa trẻ đã trưởng thành, lại dẫn tới những hậu quả bệnh lý như cao huyết áp, xơ vữa động mạch, đái tháo đường kháng insulin.

Cả quá trình giảm dần dần thức ăn trong một bữa cơm và trạng thái của một người hoàn toàn no đủ là biểu hiện của sự kiềm chế tính thèm ăn liên quan đến một loạt phản ứng phức tạp. Những phản ứng đó (về sinh lý, chuyển hóa, hóa thần kinh, tâm lý) được khởi động bởi tác động của đồ ăn và chất leptin (hormon gây ra sự chán ngấy), phụ thuộc chính vào nhiều phản ứng gây ra bởi mắt nhìn, mũi ngửi và miệng ăn thức ăn. Và chính những phản ứng đó lại “quyết định” những đáp ứng sinh lý và chuyển hóa.

Hãy xét thí dụ về một cậu bé đang yên lặng ngồi ăn hambơgơ. Ngay khi nó vừa chén bánh xong, nghĩa là còn lâu mới kết thúc quá trình tiêu hóa, bộ óc đã có thể quyết định xem với chiếc bánh trông ngon mắt, mùi thơm phức và ăn rất mềm kia, sự thèm ăn đã thỏa mãn chưa. Đó chính là sự chán về tâm thần giác quan: cậu bé đã có cái mà nó muốn. Nó bèn đứng dậy sẵn sàng chạy đi làm việc khác ngoài chuyện ăn uống.

Nhưng quá trình chán ăn chưa hẳn đã hoàn tất. Một khi các tố chất dinh dưỡng được hấp thụ qua ruột rồi lưu chuyển trong máu, chúng trở thành những thông điệp chuyển hóa được đưa tới não và được mã hóa như những tín hiệu hóa học thần kinh, sau khi não đã kết hợp những khái niệm về số lượng, chất lượng đồ ăn cũng như trạng thái chuyển hóa xảy ra sau khi ăn. Chính lúc này não sẽ truyền đi: “Dừng lại, hết đói rồi!” hay “Thêm nữa!” (đó là sự chán ngấy về chuyển hóa). Đứa trẻ sẽ đợi được tới tận bữa ăn chiều và một giờ sau đó cũng không đòi ăn thêm một chiếc kem hay một ít khoai rán nữa. Chính giai đoạn thứ hai này sẽ xác định một cách lý tưởng sự phân chia khoảng cách giữa các bữa ăn và nếu mọi sự đều ổn thoả thì chấm dứt được việc ăn vặt không đúng lúc.

Còn về sự điều tiết tính thèm ăn trong thời hạn lâu hơn, chính là do leptin, chất protein đặc sắc đó đã chuyển tín hiệu từ mô mỡ lên não thông báo về lượng dự trữ chất béo trong cơ thể (xem chương 5).Tất cả những thông tin đó chuyển đến não đã tạo nên những tín hiệu về sự chán ngấy, do vậy sẽ tham gia vào việc kiềm chế tính thèm ăn.

 

Trang: 1 [23 4 5 6 7 8 9 10 
(Các ý kiến bạn đọc được đăng tải không nhất thiết phản ánh quan điểm của ECO Việt Nam. Chúng tôi có thể biên tập lại hoặc không đăng ý kiến của bạn nếu vi phạm thuần phong mỹ tục, đạo đức hoặc các vấn đề liên quan đến chính trị....)

Liệu trình cho người thể hàn

Phục hồi và tăng cường sức khỏe với 48 chai Ecojuice
3,600,000
 (vnđ)

Liệu trình cho người thể nhiệt

Phục hồi cơ thể về trạng thái cân bằng với 48 chai Ecojuice
3,600,000
 (vnđ)