
Đứa bé nếu bạ gì cũng ăn và ngốn thức ăn suốt ngày thì rồi đây nó sẽ mập tròn như củ khoai, suốt ngày nằm dài trên tràng kỷ, hết nhá món khoai rán lại đến món kem…
Sự tiến triển phi tuyến tính ở trẻ em
Nhà dịch tễ học người Pháp Fran†oise Rolland-Cachera đã xây dựng một biểu đồ theo dõi Chỉ số khối lượng cơ thể (KCT) còn gọi là chỉ số về sự béo mập (tỷ số giữa số cân nặng bằng kg so với bình phương của chiều cao) của đứa trẻ trong quá trình lớn lên, có tính đến sự phối hợp của 3 dữ kiện (cân nặng, chiều cao và lứa tuổi). Chỉ số KCT tăng lên trong năm đầu của đứa trẻ, rồi giảm dần cho đến năm lên 6. Đến tuổi đó, biểu đồ đi lên được gọi là bước nhảy vọt về tích mỡ. Nếu bước nhảy đó tăng cao ở con bạn thì đúng là nguy cơ cháu trở nên béo phì khi lớn lên là cao hơn so với cháu bé khác. Bạn cần hết sức cảnh giác!
Ngoài ra, cái tuổi có bước nhảy đó cũng báo hiệu tuổi xương của con bạn. Điều này sớm thì điều kia cũng tiến nhanh. Do vậy, những đứa trẻ béo phì thường cũng mau trưởng thành, các cô gái béo phì thường có kinh nguyệt sớm hơn… và nếu cô con gái bé bỏng của bạn năm 9 tuổi đã có kinh nguyệt thì cần tăng cường quan tâm đến cháu: tuổi dậy thì đến sớm là một nhân tố làm nguy cơ thừa cân tăng lên. Vậy là dựa vào những biểu đồ KCT, người ta sẽ nhanh chóng đưa ra một định nghĩa có tính toàn cầu về đứa trẻ béo phì. Có hai công trình nghiên cứu thực hiện tại Pháp cách nhau 30 năm chứng tỏ tuổi của bước nhảy đã từ 6,3 xuống 5,6 tuổi tính trung bình, sát gần tuổi đó ở các cháu bé Mỹ (5,3 tuổi).
Đúng ra, cần luôn tâm niệm rằng điều hoàn toàn bình thường là đứa trẻ có thân hình mũm mĩn vì trẻ sơ sinh có 17% thể trọng là mỡ. Đến năm 1 tuổi, tỉ lệ đó tăng lên thành 25-30% (trẻ 1 tuổi bao giờ cũng có cặp má đầy đặn), rồi tỷ lệ đó lại giảm dần từ 1 đến 6 tuổi (đứa trẻ trở thành mảnh khảnh). Từ 7 tuổi trở đi, tỉ lệ đó lại tiếp tục tăng nhất là đối với các cháu gái, đạt tới 23% khi cháu 15 tuổi.
Vậy là ngay từ năm thứ hai, khi cháu đã vượt qua giai đoạn “nhảy vọt lên phía trước”, bạn cần phải tham vấn ngay, dè chừng cháu bị dư thể trọng, không nên đợi đến khi cháu đã “định hình” là một cậu bé béo phì để rồi phải trải qua gian khổ, cháu mới nhìn lại được hình dáng và vị trí của nó giữa chúng bạn.
Mảnh dẻ chưa hẳn đã là gầy
Cũng như người mập, người gầy đôi khi cũng “đánh lừa” thiên hạ. Các bậc cha mẹ, vì không lập biểu đồ theo dõi sự phát triển cơ thể của con, nhiều khi thường lầm lẫn.
Với một đứa trẻ mảnh dẻ mà cha mẹ thường ngày vẫn thấy có dáng thon dài, ngoài ra cháu lại rất háu ăn thì đừng nên lẫn lộn cháu với một đứa trẻ gầy.
Cũng vậy, cần phân biệt rõ giữa đứa trẻ có nhịp độ tăng trưởng đều đặn có cân nặng thấp hơn bình thường một chút với đứa trẻ đã “phá bỏ” nhịp điệu và tốc độ tăng trưởng. Trong trường hợp này, sự gầy đi, nhất là khi điều đó xảy ra đột ngột và kéo dài, khiến ta phải nghĩ tới sự không dung nạp thực phẩm (chẳng hạn với gluten trong ngũ cốc, lúc đứa bé 6 tháng tuổi).
Nếu như độ trệch của biểu đồ ở mức cao hơn, thì đó là dấu hiệu về những bệnh lý nặng hơn, hiếm hơn như chứng chán ăn… Cuối cùng, khá nhiều người gầy sút và người “gầy gò” sở dĩ nhẹ cân là bởi mắc một chứng bệnh nhiễm trùng (ví dụ nhiễm trung niệu đạo mãn tính) hay một dị tật (về tiêu hóa, về thận…).
Như vậy, nếu muốn nâng cao thể trọng, phải chẩn đoán bệnh và có cách ăn uống. Còn những đứa bé được sinh ra sau thời kỳ chậm phát triển trong tử cung (CPTTTC) là đứa bé kém phát triển. Cần phân biệt những bé chậm phát triển “cả ba kích thước” (vòng sọ, chiều cao, cân nặng), phải được chăm sóc cẩn thận, đôi khi kéo dài trong nhiều năm, với những bé khác chỉ là quá bé nhỏ thôi. Nói chung, các bé này chỉ sau vài tháng là bắt kịp “chuẩn mực” và sau 2 năm thì 89% các cháu này đã đạt chuẩn. Ngược lại, 20% số cháu bé đã từng bị CPTTTC vẫn tiếp tục là những trẻ quá nhỏ và quá gầy. Dĩ nhiên là phải dành cho các cháu này sự chữa trị bằng hormon tăng trưởng và phải sự theo dõi của các chuyên gia khoa nhi – nội tiết trong thời gian tối đa 2-3 năm cho đến khi các cháu được 3 tuổi.
Còn đối với những cháu thực sự gầy yếu, phải chăm sóc cẩn thận, nếu cháu có ủ bệnh thì phải lo chữa trị và cũng phải theo đúng những điều chỉ dẫn giống như hoặc gần giống như việc chăm sóc trẻ quá mập: điều chủ yếu là không nên ép buộc cháu ăn uống, bởi vì có nguy cơ sẽ làm cho trẻ gầy yếu có bước nhảy vọt sớm về tích mỡ và sinh ra béo phì trong tương lai. Nên cho cháu ăn mỗi ngày 4 bữa có đủ chất, tránh ăn vặt khiến bữa ăn chính mất ngon và sinh ra số calo vô ích.
Đèn đỏ
Khi quá trình phát triển của con bạn đã hoàn tất, để xác định mức độ béo mập của đứa trẻ, bạn có thể dùng ngay những định mức áp dụng cho người lớn tuổi. Nếu chỉ số khối lượng cơ thể (KCT) từ 25 đến 29.9 thì đó là dư thể trọng bình thường; với KCT từ 30 đến 34,5 là béo mập vừa phải, KCT từ 35 đến 39,9 là béo mập nặng và với KCT vượt quá 40 là béo mập quá mức và bệnh hoạn.
Đối với trẻ em, sự dư thừa thể trọng liên quan đến sự dư thừa của khối mỡ, được xác định bằng sự thừa cân so với chiều cao. Đứa trẻ coi là béo mập khi thể trọng vượt quá 120% cân nặng tương ứng với chiều cao của nó, vượt quá hai độ lệch tiêu chuẩn về cân nặng so với chiều cao.
Chỉ số KCT không hề đả động đến trọng lượng, và dù sao đi nữa cũng không cho bạn rõ tỷ lệ giữa khối lượng mỡ (ở sâu dưới da, nghĩa là bao quanh nội tạng) với khối lượng nạc, là điều cần biết thật chính xác mới đánh giá được mức đánh giá được mức độ nghiêm trọng và nguy cơ béo phì của con bạn.
Thật vậy, trẻ con và người lớn đều có điểm giống nhau: khối lượng mỡ càng lớn thì chứng béo phì càng nghiêm trọng.
Do vậy, để lượng định được điều đó, thày thuốc phải vận dụng đến các biện pháp khác, nhưng chỉ trong điều kiện ông ta đã dự đoán trước vấn đề, phân tích những đồ thị của con bạn và đã hỏi han để nắm vững tiền sử gia đình bạn: hồi mới 8 tuổi, bạn có phải là người hơi to và thấp không? Và mẹ bạn thế nào? Chồng bạn có luôn phải lo lắng về vấn đề nặng không? Anh em có ai bị bệnh tiểu đường không?... Chỉ sau khi đã kiểm tra những vấn đề có tính thủ tục đó, lắng nghe những băn khoăn lo lắng của bạn, giải đáp các câu hỏi, giải thích về các đồ thị khác nhau, người thầy thuốc mới tính đến việc đánh giá khối lượng mỡ của con bạn.
+ Đo các nếp da bằng compa
Việc đo này phải có thiết bị chuyên dùng và nhờ vào sự từng trải của một thầy thuốc có kinh nghiệm. Dụng cụ đo là một compan đo độ dầy có khắc độ theo 4 mức nếp gấp: nếp gấp ở cánh tay (cơ 2 đầu, 3 đầu) nếp gấp ở lưng (vùng dưới vai), nếp gấp ở sường, phía trên khung chậu. Kết quả đo giúp cho người thầy thuốc hình dung được tầm quan trọng của khối mỡ nằm dưới da. Đáng tiếc là lợi ích thu được lại phụ thuốc vào hiểu biết và kinh nghiệm của thày thuốc, thường khác nhau. Hơn nữa, điều đó không cho biết rõ về tỉ lệ của khối mỡ nằm sâu dưới da, là số liệu có vai trò quyết định trong các tai biến về tim mạch.
+ Đo vòng eo tính ra centimet
Cần vận dụng các phép đo khác nữa như đo vòng eo để có chỉ số chắc chắn về khối mỡ nằm sâu dưới da.
+ Đo sự chịu đựng của cơ thể đối với dòng điện.
Để có cơ sở hoàn thiện việc đánh giá chứng béo phì, người thầy thuốc có thể đo điện trở của cơ thể khi cho một dòng điện xoay chiều cường độ vài trăm micrô ampe, hiệu thế vài von chạy qua là đại lượng tỷ lệ với khối lượng nạc trong cơ thể, vì khối mỡ không dẫn điện. Người ta gọi phép đo đó là đo trở kháng. Nhờ đó thầy thuốc có được khái niệm chính xác về cấu tạo cơ thể của con bạn và đánh giá đúng sự chuyển hóa cơ bản của cháu. Và từ đó, thày thuốc sẽ điều chỉnh chiến lược điều trị, định ra chế độ cho thật sát hợp.
Cũng còn có những phương pháp khác mới hơn, tinh vi hơn và khá tốn kém [nhờ cộng hưởng từ hạt nhân, sự hấp thụ lưỡng quang điện tử (biphotonique)] mà hiệu quả còn đang được xem xét.
Nhưng thực ra, trước khi làm những thủ tục về chẩn bệnh thường do các bệnh viện tiến hành, điều cần thiết là phải quan tâm theo dõi biểu đồ trong y bạ của con bạn, trong suốt thời kỳ phát triển của cháu, chứ không phải là chỉ khi cháu còn ở nhà trẻ. Xin nhắc lại một lần nữa: 80% các cháu sau này bị béo phì vẫn có thể trọng bình thường tính đến năm 2 tuổi, 50% tính đến 4 tuổi và 25% tính đến năm 6 tuổi.
TIN MỚI HƠN
CÁC BÀI ĐÃ ĐĂNG